NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

Thứ Th 6,
06/09/2024
Đăng bởi Haravan Support

Một người khi thực hiện một hành vi phạm tội được quy định trong luật hình sự và bị xác định là đáp ứng đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm bằng thủ tục tố tụng hình sự sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự thể hiện qua các hình phạt: Tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Đây là các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc  nhất vì khi áp dụng sẽ hạn chế quyền tự do của công dân, thậm chí loại bỏ tính mạng của công dân. Tuy nhiên, có những trường hợp người ta thực hiện một hành vi có yếu tố phạm tội nhưng lại không phải chịu trách nhiệm hình sự. Bởi vì xem xét trong hoàn cảnh cụ thể thì hành vi ấy là cần thiết và được luật hình sự loại trừ mọi trách nhiệm hình sự. Đây là những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.

Sài Gòn Đai Tín Law Firm xin chia sẻ cùng quý khách hàng các quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự của Luật hình sự để quý khách hàng có thể dễ dàng áp dụng trong thực tiễn.

NỘI DUNG CHÍNH:

1. Sự kiện bất ngờ.

2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.

3. Phòng vệ chính đáng.

4. Tình thế cấp thiết.

5. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội.

6. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.

7. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên

1. Sự kiện bất ngờ

Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015:

Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Theo quy định tại Điều 21 BLHS 2015:

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

3. Phòng vệ chính đáng

Theo quy định tại Điều 22 BLHS 2015:

3.1. Hành vi phòng vệ chính đáng đúng giới hạn

- Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

- Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

3.2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

- Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
- Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS 2015.

4. Tình thế cấp thiết

Theo quy định tại Điều 23 BLHS 2015:

Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.

Lưu ý: Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.

5. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội

Theo quy định tại Điều 24 BLHS 2015:

Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.

Lưu ý: Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.

6. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ

Theo quy định tại Điều 25 BLHS 2015:

Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.

Lưu ý: Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

7. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên

Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.

Lưu ý: Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp sau:

- Phạm tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.

- Phạm tội chống loài người do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.

- Là tội phạm chiến tranh, phạm tội do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.

THÔNG TIN LIÊN HỆ:

Mọi thông tin, xin liên hệ  SÀI GÒN ĐẠI TÍN LAW FIRM:

♦ Địa chỉ: Số 169/6D Võ Thị Sáu, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.

♦ Điện thoại: 028 39 480 939.

♦ Hotline: 0913 655 471 (Luật sư Hải).

♦ Email: tuvan@saigondaitin.com.

 

 

Bài viết liên quan

popup

Số lượng:

Tổng tiền: