Đối với người đang chấp hành án và người thân của họ thì quy định về giảm hình phạt và tha tù trước thời hạn là quy định quan trọng. Quy định này tạo động lực cho họ lập công đối với xã hội hoặc khắc phục hậu quả, cải tạo, chấp hành án phạt nghiêm túc, sửa chữa lỗi lầm. Ngoài ra quy định này cung thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự, không áp dụng hình phạt tù đối với người già yếu, người mắc bệnh nặng và phụ nữ đang mang thai. Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định cụ thể về giảm hình phạt và tha tù trước thời hạn. Hiểu được vấn đề pháp lý về quy định này góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật và bảo vệ quyền lợi của người đang chấp hành án. Người đang chấp hành án hoặc đại diện của họ có thể yêu cầu giảm hình phạt hoặc tha tù trước thời hạn nếu thuộc các trường hợp do Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
NỘI DUNG CHÍNH: 1. Khái niệm giảm mức hình phạt đã tuyên và mức hình phạt có thể được giảm. 2. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt. 3. Án treo. 4. Tha tù trước thời hạn có điều kiện. |
1. Khái niệm giảm mức hình phạt đã tuyên và mức hình phạt có thể được giảm
1.1. Khái niệm giảm mức hình phạt đã tuyên
Theo quy định tại Điều 63 Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015:
Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
1.2. Mức hình phạt có thể được giảm
Theo quy địnhtại Điều 63 BLHS 2015:
- Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.
- Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên.
- Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.
- Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm (1).
- Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp không thi hành án tử hình do từ 75 tuổi trở lên; người phạm tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ đã khắc phục hậu quả (3/4 thiệt hại) và lập công thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
- Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.
- Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định về trừng hợp (1).
2. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt
2.1. Khái niệm giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt
Theo quy định tại Điều 63 BLHS 2015:
Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức mà BLHS 2015 quy định cho các trường hợp bình thường.
2.2. Mức hình phạt có thể được giảm đối với trường hợp đặc biệt
Theo quy định tại Điều 6 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP:
a) Thời hạn đã chấp hành hình phạt để được xét giảm hình phạt:
Người bị kết án đã chấp hành được ít nhất một phần tư thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ 30 năm trở xuống; 10 năm đối với tù chung thân; 12 năm đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án tù chung thân và có đủ điều kiện để giảm hình phạt quy định tại Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, nếu người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Đã lập công; trong đó, mỗi lần lập công, người bị kết án chỉ được xét giảm thời hạn một lần.
- Đã quá già yếu.
- Mắc bệnh hiểm nghèo.
b) Mức hình phạt có thể được giảm:
Mức giảm mỗi lần cao nhất cho các trường hợp được quy định trên có thể là 01 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 04 năm đối với hình phạt tù có thời hạn, hình phạt tù chung thân, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành hình phạt ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên hoặc 15 năm đối với hình phạt tù chung thân; trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì thời gian thực tế chấp hành hình phạt ít nhất là 20 năm.
Lưu ý: Trường hợp đặc biệt, khi có đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; sau khi có ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và được sự đồng ý của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì người bị kết án có thể được xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với các trường hợp trên.
3. Án treo
3.1. Khái niệm án treo
Theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết 02/2022/VBHN - TANDTC:
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.
3.2. Thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo
Theo quy định tại Điều 65 BLHS 2015:
- Thời gian thử thách được ấn định đối với người được hưởng án treo là thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm.
- Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án do BLHS 2015 quy định.
- Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
- Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.
- Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
4. Tha tù trước thời hạn có điều kiện
4.1. Điều kiện để người đang chấp hành án phạt được tha tù trước thời hạn
Theo quy định tại Điều 66 BLHS 2015 thì người đang chấp hành án phạt tù có thể được tha tù trước thời hạn nếu có đủ các điều kiện sau
- Phạm tội lần đầu.
- Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt.
- Đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng trở lên.
- Có nơi cư trú rõ ràng.
- Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự.
- Đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức thời hạn tù đối với hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 15 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.
- Trường hợp người phạm tội là thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì thời gian đã chấp hành ít nhất là một phần ba hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 12 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.
4.2. Thời gian thử thách đối với người được tha tù trước thời hạn có điều kiện
Theo quy định tại Điều 66 BLHS 2015:
- Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.
- Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.
- Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án do BLHS 2015 quy định.
- Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
4.3. Những trường hợp không áp dụng tha tù trước thời hạn có điều kiện
- Người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội khủng bố; tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh hoặc người bị kết án từ 10 năm tù trở lên đối với tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người; 07 năm tù trở lên đối với các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và sản xuất trái phép, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy.
- Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp không thi hành án tử hình do BLHS 2015 quy định.
THÔNG TIN LIÊN HỆ:
Mọi thông tin, xin liên hệ SÀI GÒN ĐẠI TÍN LAW FIRM:
♦ Địa chỉ: Số 169/6D Võ Thị Sáu, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
♦ Điện thoại: 028 39 480 939.
♦ Hotline: 0913 655 471 (Luật sư Hải).
♦ Email: tuvan@saigondaitin.com.