Khi quyết định hình phạt chính là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để lựa chọn loại hình phạt: Cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chung thân hoặc tử hình và mức hình phạt: 01 năm, 03 năm, 07 năm, 15 năm, … Đây là vấn đề quan trọng trong vụ án án hình sự. Bởi vì nó ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người bị buộc tội và cả bị hại. Nếu quyết định hình phạt không chính xác, không có căn cứ thì sẽ vi phạm quyền con người đối với người bị buộc tội hoặc không công bằng đối với bị hại. Trong một số trường hợp người phạm tội sẽ được quyết định hình phạt dưới khung hình phạt mà điều luật quy định hoặc có thể bị quyết định hình phạt cao hơn khung hình phạt mà điều luật quy định. Việc quyết định hình phạt trong các trường hợp này không phải xuất phát từ ý thức chủ quan của Hội đồng xét xử mà phải căn cứ vào các quy định cụ thể của pháp luật hình sự. Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định cụ thể các căn cứ để quyết định giảm nhẹ hoặc tăng nặng hình phạt. Trong thực tiễn, các căn cứ này được áp dụng thường xuyên trong quá trình tố tụng nói chung và khi xét xử nói riêng.
NỘI DUNG CHÍNH: 1. Các căn cứ quyết định hình phạt. 2. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 3. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. 4. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm. |
1. Các căn cứ quyết định hình phạt
Theo quy định tại Điều 50 Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015:
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS 2015, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Như vậy, căn cứ để quyết định hình phạt bao gồm:
- Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
- Nhân thân người phạm tội.
- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Lưu ý: Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ trên, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.
2. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 51 BLHS 2015 thì các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bao gồm:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm.
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra.
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn.
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức.
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra.
- Phạm tội do lạc hậu.
- Người phạm tội là phụ nữ có thai.
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên.
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
- Người phạm tội tự thú.
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
- Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án.
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội.
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.
- Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
- Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Lưu ý: Các tình tiết giảm nhẹ đã được BLHS quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt. Ví dụ:
- Giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc giết trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là dấu hiệu định tội của tội giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126BLHS 2015). Như vậy, phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội này.
- Tự thú, thành khẩn khai báo là tình tiết định khung để miễn trách nhiệm hình sự của tội gián điệp (khoản 4 Điều 110 BLHS 2015) nên không phải là tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội gián điệp.
3. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 52 BLHS 2015 thì các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bao gồm:
- Phạm tội có tổ chức.
- Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
- Phạm tội có tính chất côn đồ.
- Phạm tội vì động cơ đê hèn.
- Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng.
- Phạm tội 02 lần trở lên.
- Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
- Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên.
- Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác.
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
- Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội.
- Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội.
- Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Lưu ý: Các tình tiết đã được BLHS 2015 quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Ví dụ:
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là dấu hiệu định tội của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356 BLHS 2015) thì không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.
- Tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung để áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ 07 năm đến 15 năm của tội hiếp dâm (điểm k khoản 2 Điều 141 BLHS 2015) thì không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội hiếp dâm.
4. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Theo quy định tại Điều 53 BLHS 2015:
4.1. Tái phạm
Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
4.2. Tái phạm nguy hiểm
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
* Theo quy định về phân loại tội phạm của Điều 9 BLHS 2015 thì:
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
THÔNG TIN LIÊN HỆ:
Mọi thông tin, xin liên hệ SÀI GÒN ĐẠI TÍN LAW FIRM:
♦ Địa chỉ: Số 169/6D Võ Thị Sáu, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
♦ Điện thoại: 028 39 480 939.
♦ Hotline: 0913 655 471 (Luật sư Hải).
♦ Email: tuvan@saigondaitin.com.